THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA
I. Đặt vấn đề
Bồi dưỡng và phát triển năng lực tự học của người học là một trong những định hướng xuyên suốt và nhất quán trong văn kiện chỉ đạo của Đảng, Quốc hội và Nhà nước trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết số 29-NQ/TW xác định mục tiêu phát triển: “ phát triển khả năng sang tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học”.
Tự học là cần thiết đối với tất cả mọi người trong suốt cuộc đời. Với sinh viên việc hình thành và phát triển năng lực tự học là vô cùng cần thiết, có nhiều cách để phát triển năng lực tự học như: Phát huy tính tích cực của người học, tối ưu hoá việc học bằng dạy học chương trình hoá, thực hiện bài tập nghiên cứu, tổ chức dạy học phân hoá, áp dụng công nghệ dạy học và dạy cách học cho người học. Trong quá trình hội nhập, thực hiện đào tạo theo chương trình “tín chỉ ”, tự học là một yêu cầu bức thiết. Luật Giáo dục đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực học nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”. Tuy nhiên, cũng như một số trường khác, vấn đề tự học của sinh viên Trường Cao đẳng Sơn La còn nhiều điều đáng bàn. Thiết nghĩ, cần thiết nêu lên thực trạng và tìm ra những giải pháp cụ thể mang tính chất khả thi mới có thể giúp sinh viên giải quyết vấn đề tự học.
II. Thực trạng học tập hiện nay của sinh viên trường Cao đẳng Sơn La
Trong xu hướng rút cần ngắn thời gian lên lớp, nhiều sinh viên cảm thấy thời gian học tập sao quá nhàn hạ để họ có thể cho phép mình được vui chơi thoải mái. Bên cạnh đó tình trạng học “đối phó” diễn ra phổ biến trong sinh viên. Hầu hết sinh viên chưa chủ động được thời gian, chưa biết sắp xếp hợp lí thời gian cho toàn bộ chương trình cũng như kế hoạch học tập hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày của mình.
Đa số sinh viên chưa biết và cũng chưa có ý thức chủ động tìm kiếm kiến thức mới. Giảng viên dạy tới đâu, sinh viên học đến đó, giảng viên dặn điều gì thì sinh viên học và làm điều ấy. Một số sinh viên học theo lối thực dụng: những phần nào giảng viên cho cho thi, liên quan đến điểm số thì mới đầu tư học tập.
Khả năng ứng dụng và tiêu hoá kiến thức của nhiều sinh viên chưa sâu. Đối với sinh viên, kiến thức ở giảng đường dường như tách rời thực tế. sinh viên chưa thấy được kiến thức sách vở là bắt nguồn từ cuộc sống và mục đích cuối cùng của chúng là sẽ trở lại phục vụ cuộc sống. Đối với sinh viên nhiều vấn đề khoa học trở nên trừu tượng, mơ hồ, chúng tồn tại chơi vơi, dường như không có đất sống. Muốn tìm được mảnh đất sống thực sự cho chúng không gì hơn là phải đầu tư tự nghiên cứu, tự học. Sinh viên cũng chưa thấy được mối quan hệ giữa các các học phần, các đơn vị kiến thức. Kiến thức mình đang học có liên quan gì với kiến thức trước và sau nó. Do vậy, sinh viên cũng chưa biết vận dụng cái đã biết để giải quyết những vần đề chưa biết và cần biết.
Từ những đặc điểm nêu trên dẫn đến một hậu quả khá nghiêm trọng là khả năng nghiên cứu của đa số sinh viên còn yếu kém. Điều này, đồng thời, dẫn đến một hệ lụy sau cùng là sau khi ra trường, khả năng phát hiện vấn đề, xử lí tình huống, giải quyết công việc của hầu hết SV là không cao.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRONG DẠY HỌC Ở CAO ĐẲNG SƠN LA
Trong những giờ học đầu tiên, cần giới thiệu kỹ lịch trình và kế hoạch giảng dạy. Thông báo rõ ràng cho sinh viên về mục tiêu, chuẩn đầu ra của học phần. Thông qua đó cần làm cho sinh viên hiểu rõ, vị trí, ý nghĩa của học phần trong chương trình đào tạo của khoá học. Mỗi học phần thường đảm nhận một vài chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, chúng có mối liên hệ với học phần trước và sau nó, qua đó sinh viên hiểu được vì sao phải học học phần này? Nội dung học phần sẽ được sử dụng cho các học phần tiếp theo như thế nào. Giới thiệu kỹ về học phần giúp sinh viên hình thành động cơ,mục đích học tập, chủ động lập kế hoạch học tập phù hợp với yêu cầu của học phần
Hướng dẫn sinh viên cách học chủ động, tìm kiếm thông tin, tài liệu, ghi chép bài chủ động nghiên cứu học tập có suy tư, trải nghiệm và liên hệ, cách ghi nhớ nội dung học tập theo vấn đề,logic
Hạn chế tối đa cách trình bày nội dung một chiều trên lớp, áp dụng phương pháp đặt vấn đề, và thảo luận nhóm để sinh viên được trình bày quan điểm cá nhân, bổ sung và thu thập thêm tài liệu khi thuyết trình
Đa dạng hoá các hình thức đánh giá. Thực hiện đánh giá quá trình và phản hồi liên tục trong suốt quá trình dạy và học. Quy định tỉ trọng đánh giá quá trình và đánh giá kết thúc; đánh giá qua bài thu hoạch tổng hợp và vận dụng tổng hợp. Đa dạng hóa các hình thức đánh giá cũng là cách để sinh viên tự rút kinh nghiệm và tự đánh giá kết quả học tập của chính mình.
IV. KẾT LUẬN
Trường cao đẳng dù hiện đại đến đâu cũng không trang bị đủ kiến thức, kỹ năng cho người học hành nghề suốt đời trong thực tiễn nghề nghiệp luôn biến đổi, vì thế một trong những mục tiêu của giáo dục là phải phát triển được năng lực tự học của người học. Bản chất của học tập ở cao đẳng là mang tính nghiên cứu, được thực hiện chủ yếu qua tự học, đặc biệt, học tập theo tín chỉ đặt ra yêu cầu rất cao đối với người học. Trong học chế tín chỉ (với quy định 1 giờ học tín chỉ trên lớp, cần 2 giờ tự học) đòi hỏi sinh viên phải làm chủ được thời gian, trong đó thời gian tự học là chủ yếu. Tự học, tự nghiên cứu để tích lũy kiến thức, rèn luyện kỹ năng học tập, kỹ năng thực hành nghề nghiệp là những yêu cầu quan trọng và hết sức cần thiết đối với sinh viên.
Phương châm cốt lõi trong kỹ năng tự học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen thụ động trong học sinh, sinh viên, khai thác nguồn tư liệu giáo dục mở, và thư viện số, tư liệu nguồn internet. Muc tiêu là trang bị kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên trong quá trình theo học tại cao đẳng cũng như suốt đời học tập để làm giàu tri thức của bản thân, và phục vụ tốt cho thực tiễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết số 29 NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hà Nội.
2. Chính phủ (2005), Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005 NQ-CP ngày 02/11/2005 về đổi mới cơ bản toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, Hà Nội
Lê Thị Thúy Hiền: GV BM Chính trị - Khoa Cơ bản
Thực hiện kế hoạch số 211/KH-CĐSL của trường Cao đẳng Sơn La, từ ngày 06/09/2022 đến 10/09/2022, Trường Cao đẳng Sơn La đã tổ chức Tuần sinh hoạt chính trị đầu khoá cho học sinh Trung cấp K59 và sinh viên Cao đẳng K59.
Toàn cảnh lớp học
Việc triển khai tuần sinh hoạt chính trị đầu khóa cho HSSV nhằm nâng cao nhận thức của HSSV về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trang bị đầy đủ, kịp thời một số thông tin cơ bản và cần thiết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quốc tế; chủ trương, chính sách đổi mới giáo dục và đào tạo. Cũng như giúp HSSV hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ, ý thức trách nhiệm thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, các quy chế, quy định về đào tạo.
Th.S Đào Huy Quân - Trưởng khoa Cơ bản quán triệt những nội dung cơ bản trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
Thông qua lớp học các giảng viên đã giúp HSSV tiếp cận và lĩnh hội nhiều kiến thức bổ ích, tạo hành trang để các em chuẩn bị bước vào môi trường học tập mới.
Tin bài: Hoàng Thị Thanh Thủy - Giảng viên khoa Cơ bản.
Ảnh: Phúc Thịnh - Phòng Công tác HSSV
Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học, là một dạng hoạt động của sinh viên tiến hành ngoài giờ lên lớp chính thức, ngoài phạm vi quy định của chương trình bộ môn nhằm hỗ trợ cho chương trình nội khóa, góp phần hoàn thiện và phát triển nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo của sinh viên, giúp sinh viên không chỉ củng cố và khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng bồi dưỡng tình cảm mà còn tạo ra sự thoải mái, hòa nhập với tập thể, nâng cao ý thức cuộc sống cộng đồng, đáp ứng tâm lý ưa sôi động, thích khám phá cái mới của tuổi trẻ nói chung và của Sinh viên trường CĐ Sơn La nói riêng.
Trong những năm gần đây, việc giảng dạy ngoại ngữ ở các trường đại học, cao đẳng trên cả nước theo hướng giao tiếp là phương pháp chủ đạo được áp dụng rộng rãi. Việc rèn luyện cho sinh viên (SV) khả năng sử dụng ngôn ngữ thông qua bốn kỹ năng: nghe (listening), nói (speaking), đọc (reading), viết (writing) được xem là mục tiêu cơ bản trong tiến trình dạy và học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng. Bộ môn Ngoại ngữ thuộc Khoa Giáo dục Đại cương trường Cao đẳng Sơn La đã sử dụng các bộ giáo trình khác nhau để giảng dạy cho sinh viên các khối không chuyên như: Lifeline, New headway, New English file và mới đây là giáo trình Solution … những bộ giáo trình này đều được nhóm tác giả biên soạn theo hướng dạy và học theo phương pháp giao tiếp (PPGT). Bài viết này đi vào phân tích thực trạng vận dụng PPGT trong việc dạy tiếng Anh cho sinh viên không chuyên trường Cao đẳng Sơn La và đề xuất một số giải pháp khắc phục.
2. Thực trạng và những hạn chế trong việc vận dụng phương pháp giao tiếp trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ trường Cao đẳng Sơn La.
2.1 Sinh viên có xuất phát điểm thấp, không tích cực tham gia các hoạt động trong lớp và không có động cơ thúc đẩy việc học tập tiếng Anh.
Xuất phát điểm của sinh viên không chuyên trường Cao đẳng Sơn La chỉ ở mức thấp, đặc biệt là năng lực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp bằng tiếng Anh. Đây cũng là tình hình chung của các trường Cao Đẳng thuộc các tỉnh thuộc vùng khó khăn mà hầu hết sinh viên thuộc đối tượng dân tộc ít người được tuyển sinh từ vùng sâu vùng xa trong tỉnh. Phần lớn sinh viên phát âm tiếng phổ thông chưa chuẩn dẫn đến việc phát âm chưa đúng các từ tiếng Anh theo phiên âm quốc tế, chưa đúng trọng âm, đặc biệt hay bỏ các âm cuối như âm /s/; /st/; /th/ phát âm sai các từ có đuôi /ed/ như trong từ hoped và washed; /t/ trong từ wanted và added; /id/ trong từ played và cried ... Việc phát âm không chính xác dẫn đến sinh viên rất ngại giao tiếp bằng tiếng Anh ngay cả trong giờ thực hành ngôn ngữ. Sự chuyển di tiêu cực từ tiếng mẹ đẻ cũng gây ảnh hưởng lớn đến phương thức diễn đạt hay chất lượng giao tiếp. Ví dụ các quy tắc về danh từ số ít, số nhiều, quy tắc về thì
2.2 Ảnh hưởng của yếu tố tâm lí.
Thực tế cho thấy có khá nhiều sinh viên tâm lí không tốt, thiếu tự tin trong giao tiếp, còn rụt rè, nhút nhát khi tham gia giờ học tiếng Anh được thiết kế theo PPGT. Thậm chí, nhiều sinh viên, kể cả những sinh viên có kiến thức cơ bản về tiếng Anh khá tốt vẫn có cảm giác xấu hổ, e ngại vì tâm lí sợ bị người khác chê cười khi mắc lỗi về phát âm, đọc sai, viết sai từ, đọc không đúng trọng âm hay nói không đúng ngữ điệu … Tất cả những điều trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc giảng viên vận dụng PPGT vào các giờ dạy tiếng Anh của học sinh, sinh viên.
2.3 Giữa thi, kiểm tra và giảng dạy chưa có sự đồng bộ.
Hiện nay, cũng như phần lớn các trường Cao đẳng khác trên địa bàn Tỉnh, trường Cao đẳng Sơn La sử dụng đề thi tiếng Anh cho sinh viên không chuyên theo phương pháp truyền thống, nghĩa là người học chỉ cần làm một bài viết với trọng tâm là kiến thức ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng và đọc hiểu … Chính hình thức thi này là nguyên nhân gây ra những hạn chế trong việc vận dụng PPGT trong giảng dạy tiếng Anh. Các kì thi cũng không thề kiểm tra được năng lực giao tiếp toàn diện bằng ngoại ngữ của sinh viên.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng phuơng pháp giao tiếp trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ trường Cao đẳng Sơn La.
3.1. Sinh viên cần xác định rõ động cơ, thái độ học tập đúng đắn.
Giảng viên là người có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập rèn luyện của sinh viên vì vậy cần giúp cho sinh viên đánh giá đúng đắn sự cần thiết của tiếng Anh trong quá trình hội nhập để sinh viên xác định được động cơ, thái độ học tập tích cực, chiến lược học có hiệu quả.
3.2. Đối với yếu tố tâm lí
Người dạy nên dành nhiều thời gian hơn để quan sát, động viên, giúp đỡ kịp thời những sinh viên yếu kém khi họ gặp trở ngại trong hoạt động giao tiếp tiếng Anh. Giảng viên không lên áp dụng cứng nhắc những tình huống có sẵn trong giáo trình để tổ chức hoạt động giao tiếp mà thay vào đó lên sử dụng những tình huống có thật hoặc các tình huống sinh viên hay gặp để giúp sinh viên dễ vận dụng, qua đó người học tự liên hệ với bản thân và hình thành các tình huống giao tiếp thực tế (real situations)
3.3. Sự đồng bộ giữa thi và giảng dạy
Thay vì hình thức thi viết truyền thống giảng viên có thể áp dụng nhiều hình thức thi kiểm tra khác để đạt được mục tiêu của chương trình là sử dụng được tiếng Anh trong giao tiếp hằng ngày. Chẳng hạn như đề thi được thiết kế dưới dạng hoạt động giao tiếp theo nhóm cặp (debate) hay hình thức thi nói theo chủ đề (topic) mà các chủ đề có thể trích ra từ chương trình học. Với hình thức thi, kiểm tra như vậy người học bắt buộc phải tự giác hơn, tích cực hơn trong việc rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ: đặc biệt là kỹ năng giao tiếp, vốn là yếu tố đặc thù của PPGT.
Kết luận: Để tăng tính hiệu quả khi vận dụng PPGT trong quá trình dạy và học tiếng Anh nói riêng và ngoại ngữ nói chung, người dạy nên đa dạng hóa các hoạt động dạy học bẳng cách cải tiến nhiều loại hình hoạt động khác nhau nhằm tạo hứng thú cho người học. Ngoài những hoạt động thiết kế theo nội dung của giáo trình, giảng viên có thể lựa chọn những chủ đề hay hoặc các chủ đề nóng đang là mối quan tâm của xã hội nhằm lôi cuốn sự tích cực hăng hái tham gia của sinh viên. Mỗi giảng viên phải biết tạo mối quan hệ tương tác giữa trò với trò, giữa thầy với trò tạo nên sự bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên và tạo nên môi trường học tập an toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Greg Bock. Teaching English in Vietnam. Teacher’s Edition, 2000
2.Candlin, ed. The Communicative. Teaching of English. Longman, 1981
3. Richard, J& T. Rodger. Approach and method in Language Teaching. 2nd Ed. Cambridge: Cambridge University Press, 1986
4. Widdowson. Teaching Language as Communication. Oxford: Oxford University Press. 1978
GV Nguyễn Thị Mai Hương - Khoa Giáo dục đại cương – Trường Cao đẳng Sơn La
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học là xu hướng tất yếu của giáo dục Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay. Đối với các môn lý luận chính trị xuất phát từ đặc thù tri thức của các môn học này, tìm kiếm và áp dụng các phương pháp dạy học phù hợp để nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên là yêu cầu cấp bách, góp phần nâng cao chất lượng quá trình dạy học.
Trong trường Cao đẳng Sơn La hiện nay, các môn lý luận chính trị hiện nay bao gồm các học phần: Những nguyên lý cơ cản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Giáo dục chính trị. Đây là các môn học thuộc khoa học chính trị, có hệ thống kiến thức mang tính lý luận và khái quát cao. Với đặc thù môn học là nhiều thông tin, kiến thức hàn lâm và có sự liên kết chặt chẽ vớ nhau thì cần thiết sử dụng một phương pháp giúp cho người học dần hình thành tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Việc ứng dụng bản đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học, lấy người học là trung tâm, giúp sinh viên hứng thú, tìm tòi, khám phá, ghi nhớ, tự do suy nghĩ và phát huy tiềm năng sáng tạo tri thức một cách khoa học